Bước tới nội dung

Tư Mã Hi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tư Mã Hi
Thụy hiệuUy
Thông tin cá nhân
Sinh316
Mất
Thụy hiệu
Uy
Ngày mất
381
Giới tínhnam
Gia quyến
Thân phụ
Tấn Nguyên Đế
Anh chị em
Princess Xunyang, Sima Chong, Sima Pou, Tấn Minh Đế, Tấn Giản Văn Đế, Sima Huan
Hậu duệ
Tư Mã Tuân
Gia tộcnhà Tư Mã
Nghề nghiệpchính khách
Quốc tịchnhà Tấn

Tư Mã Hi (chữ Hán: 司馬晞, 316 - 381), tức Vũ Lăng Uy vương, tên tựĐạo Thúc (道叔), là đại thần, tông thất nhà Tấn trong lịch sử Trung Quốc.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Tư Mã Hi là con trai thứ của Tấn Nguyên Đế, vua thứ năm của nhà Tấn, cũng là vị vua đầu tiên của thời kì Đông Tấn (317 - 420). Mẹ ông là Vương phu nhân.

Do xuất thân hoàng tử nên Tư Mã Hi nhanh chóng nắm được nhiều chức vụ trọng yếu khi tuổi còn rất trẻ. Năm 318, khi Tấn Nguyên Đế đăng quang, đã phong cho ông làm Vũ Lăng vương[1]. Đến những năm đầu Hàm Hòa (326-334), ông được bổ làm Tán kị thường thị, Tả tướng quân, nhưng về sau đổi làm Trấn quân tướng quân. Năm 342, Tấn Khang Đế (người gọi Tư Mã Hi là chú ruột) lên ngôi, thăng chức quan của ông lên làm Thị trung rồi Bí thư giám. Năm 345, ông được thăng làm Trấn quân Đại tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam ti và sang 352 (thời Mục Đế, con Khang Đế), Tư Mã Hi được bổ làm Thái tể, chức vụ rất cao trong triều đình[2].

Tấn thư đánh giá Tư Mã Hi là người không có học thức nhưng có tài năng quân sự, do đó bị Đại tư mã Hoàn Ôn đố kị. Tháng 1 dương lịch năm 372, Hoàn Ôn phế Hoàng đế Tư Mã Dịch, lập em trai Tư Mã Hi là Cối Kê vương Tư Mã Dục làm vua, tức Tấn Giản Văn Đế[3][4], từ đó trở thành người khống chế triều chính. Cùng năm đó, tháng 11 Hoàn Ôn thượng biểu lên Giản Văn Đế, vu cho Tư Mã Hi tội mưu phản, bảo Giản Văn Đế phế đi. Giản Văn Đế đành nghe theo, giáng ông và con trai làm dân thường[5].

Tuy nhiên Hoàn Ôn vẫn không chịu bỏ qua, lại ép Tân Thái vương Tư Mã Triều dâng thư vu Tư Mã Hi cùng Tác phẩm lang Ân Quyển, Thái tể trưởng sử Dữu Sai, Duyện Tào Tú, Xá nhân Lưu Cường phản nghịch, yêu cầu giết chết Tư Mã Hi. Giản Văn Đế nhất định không chịu, trả lời rằng nếu như không bảo vệ được anh trai thì mình sẽ thoái vị. Hoàn Ôn biết tin, đột nhiên biến sắc, từ đó không dám nhắc đến việc ấy nữa, đồng ý phế ông làm dân thường, đưa Tư Mã Hi và các con trai ông đến quận Tân An.

Năm 381, Tư Mã Hi mất ở Tân An, hưởng dương 66 tuổi. Tấn Hiếu Vũ Đế nghe tin, đến Tây Đường khóc tang, đón gia quyến của ông về kinh rồi truy phong ông làm Tân Ninh quận vương, thụy là Uy vương. Lúc đó hai con lớn của ông là Tư Mã Tống và Tư Mã Phùng đã chết, đế bèn truy phong Tống làm Cấp sự trung, Phùng làm Tán kị lang, còn Tư Mã Tuân được kế thừa tước vương. Sang năm 388, Tư Mã Hi được khôi phục tước Vũ Lăng vương. Tư Mã Tuân sau làm quan đến chức Thái bảo.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tấn thư, quyển 64: Xuất kế Vũ Lăng vương hậu, Thái Hưng nguyên niên thụ phong
  2. ^ Tấn thư, quyển 64: Mục đế tức vị, chuyển Trấn quân Đại tướng quân, thiên Thái tể 
  3. ^ Tư trị thông giám, quyển 102: đinh vị, nghệ Kiến Khang, phúng Trữ thái hậu thỉnh phế đế, lập thừa tướng Cối Kê vương Dục tịnh tác lệnh thảo trình chi
  4. ^ Tấn thư, quyển 9: Vu thị đại tư mã Hoàn ÔN suất bách quan tiến Thái Cực tiền điện, cụ thừa dư pháp giá, phụng nghênh đế vu Cối Kê để vu triều đường biến phục, trứ bình cân trách đan y, đông hướng bái thụ tỉ thụ
  5. ^ Tấn thư, quyển 9: Ât mão, Ôn tấu phế Thái tể, Vũ Lăng vương Hi cập tử tổng